Ngữ
cảnh triết học:
Phê bình, Hư vô chủ
nghĩa, Hoài nghi chủ nghĩa,
và Quyết định
luận
Để cung cấp một
ngữ cảnh
triết học
cho việc nhận thức
triết học
của Foucault, phần sau đây sẽ giải
thích bốn khái niệm triết học
– phê bình, hư vô chủ
nghĩa, hoài nghi chủ nghĩa,
và quyết
định luận – cũng
như những
mối liên hệ tương
ứng của
chúng đối với tác phẩm của
Foucault.
Phê
bình
Các học giả
thường coi tác phẩm của
Foucault là một phần của
truyền thống triết học
“phê bình”. Những nghiên cứu triết học
khác trong truyền thống này bao gồm các tác phẩm của
Immanuel Kant (Phê phán Lý tính Thuần túy, Phê phán Lý tính Thực hành, Phê phán Năng lực Phán đoán), Karl Marx (Tư
bản,
Tuyên ngôn Cộng
sản), và phái Frankfurt (tên chính thức là Viện Nghiên cứu
Xã hội, gồm Theodor Adorno, Max Horkheimer, và
Walter Benjamin). Các trường
phái tư tưởng này
được coi là có tính “phê bình” ở chỗ
mục đích của chúng là làm cho sự
giải phóng con người trở
nên thuận lợi bằng
nỗ lực
tìm hiểu cách thức mà lý tính có thể được
áp dụng để nâng cao đời sống
con người, cũng như cách
thức mà lý tính có thể hành chức để
đặt những
giới hạn
lên việc làm con người thì có nghĩa là gì.
Triết học
Foucault nghiên cứu rất nhiều những
vấn đề
tương tự
như những
lý thuyết phê bình khác thực hiện,
bao gồm quyền lực,
tự do, chính trị và những khả
năng cho tư duy luận lý. Nó cũng tập
trung vào cùng những vấn đề
như những
lý thuyết phê bình khác;
tuy nhiên Foucault tiếp
cận những
vấn đề
này trong cách thức giống với
Nietzche hơn là các lý thuyết phê bình hiện đại.
Đối nghịch với rất nhiều
các nhà lý luận phê bình khác, tác phẩm của Foucault không đề xuất những giải
pháp cho các vấn đề chính trị.
Không giống như
Kant, Marx, hay phái Frankfurt, triết học Foucalt không đưa ra cho chúng
ta một viễn tượng về một thế giới công bằng,
nhân quần đạo đức, hay một
xã hội không giai cấp. Cách tiếp cận phê bình của ông không cung cấp những câu trả lời cho các vấn đề chính trị và
xã hội, nhưng
lại đưa ra những
câu hỏi về cách thức
chúng ta suy nghĩ. Câu slogan phổ biến “Tra vấn uy quyền”
(Quesstion authority) rất sát để
miêu tả hướng tiếp cận thuyết phê bình của Foucault.
Foucalt gọi tiêu điểm triết học của mình là problematization. Thuật ngữ này có nghĩa kép.
Trong nghĩa thứ nhất, problematize
có nghĩa là biến các thực tế thành các vấn đề. Foucault nghiên cứu lịch sử xã hội
và chính trị để thách thức
uy quyền của những thứ mà
chúng ta mặc nhiên thừa
nhận, đặc biệt là những
thứ mà chúng ta cho là tất yếu và bất
khả. Nghĩa khác
của problematization
là coi các vấn đề như là
đối tượng của nghiên cứu.
Foucault quan tâm tới việc những vấn đề của thế kỉ mười bảy khác biệt
thế nào so với
những vấn đề của thế kỉ mười tám. Ông đưa ra câu
hỏi “Cái gì là điều kiện lịch sử làm cho vài điều gì đó - chứ không phải
những cái khác - trông như thể có vấn đề? Tại sao cái gì đó lại trở thành vấn đề?” Ví dụ, ông quan tâm tới những điều
kiện đem tới sự nảy sinh của
cái gọi là quy tắc
trang phục nhà trường.
Thật lạ lùng làm sao khi quần áo của học sinh lại
có tính chất quan trọng
đối với những nghi thức
trường học đến thế! Cái gì đang diễn ra trong trường học giải thích cho lý do tại sao trang phục của học sinh lại
trở thành một vấn đề của kỉ luật trường quy?
Phê bình chính trị đối với Faucoult không có nghĩa là
“giải quyết
các vấn đề”. Nó có nghĩa là
thách thức
những sự mặc nhận đang hiện
hành, phá hủy hiện trạng, tra vấn
uy quyền, và kích thích chúng ta tự nhìn nhận lại chính chúng ta trong thế giới bằng cái nhìn mới. Theo hướng này, cách tiếp cận problematization
của Foucault tới triết học một mặt giống với những nhà lý luận phê phán khác và mặt khác lại
là riêng biệt.
Một vài học giả nghiên cứu
Foucault mô tả tác phẩm của ông là có tính hư vô,
hoài nghi và định mệnh. Ở từng khái niệm
trong số ba khái niệm
này, có những lý do biện hộ cho quy kết đó, và cũng có
những lý do giải
thích tại sao quy kết
đó đã không được áp dụng
một cách công bằng cho tác phẩm của Foucault. Ba khái niệm này - hư vô
chủ nghĩa,
hoài nghi chủ
nghĩa, và
quyết định luận –
được bàn luận
ngắn gọn phía dưới
đây sẽ cung cấp một ngữ cảnh triết học cho việc đánh giá đúng vị trí của Foucault trong bối cảnh triết học.
Hư vô chủ nghĩa
Bởi Foucault không đưa ra giải
pháp cho các vấn đề, một vài nhà lí luận phê bình hiện đại đã gọi
triết học của ông là hư vô chủ nghĩa.
Phụ thuộc vào cách chủ nghĩa
hư vô
được định nghĩa, thì quả thật tác phẩm của Foucault ít nhiều có tính hư vô.
Hư vô
chủ nghĩa
là một quan điểm
triết học cho rằng
chẳng có nền tảng nào cho chúng ta dựa vào để mà
nhận thấy sự thật hay quyết định chọn giá trị của bất kì điều
gì. Chủ nghĩa
hư vô
xác quyết rằng không có căn cứ nào để từ đó chúng ta có thế viện vào mà định
giá chân lý trong đức tin và tuyên bố của chúng ta.
Sự quy kết hư vô
chủ nghĩa
có thể được áp dụng
bởi triết học Foucault không đóng góp gì cho cuộc truy tìm sự thật của khoa học
hoặc hiện đại. Triết học Foucault khước từ những thỉnh
cầu các căn cứ nền tảng (những
thứ chúng ta cho là đúng ở mọi lúc mọi nơi). Ông
cũng đã
phê phán
những “chủ
thuyết”, những
trường phái tư tưởng cung cấp cơ sở cho việc
quyết định cái gì là tốt và cái gì là xấu, hay cái gì là đúng và cái gì là sai.
Foucault không đem lại cho chúng ta những nguyên tắc chỉ đạo để định giá sự thật hay giá trị của bất kì điều
gì. Hơn nữa, triết học của ông cũng đặt thành vấn đề những nỗ lực triết học hòng hợp lý hóa hay biện minh cho những định giá như vậy. Triết học Foucault có thể được coi như là có
tính hư vô
trong chừng mực mà nó khước
từ những nỗ lực nhằm cung cấp
các căn cứ nền tảng (những
lý do đáng tin cậy hay những
biện hộ có tính hệ thống) có thể giúp chúng ta phân biệt được tốt – xấu,
đúng – sai.
Đồng thời tác phẩm của Foucault cũng
có thể được coi là phản- hư vô.
Ông không làm
việc để tìm ra cơ sở cho việc xác định
sự thật, nhưng
- điều này rất
quan trọng – điều
này không có nghĩa là ông
làm việc để chứng minh rằng
không có cơ sở cho sự thật. Triết học Foucault không xác quyết rằng “Chẳng
có cái gì ví như sự thật cả”, cho nên theo nghĩa này
nó không
phải là hư vô. Thay vào đó,
quan điểm của ông giống
với điều này:
Có thể
có hoặc không thể
có cơ sở
phổ quát cho sự
thật. Tôi không quan tâm tới
việc đó. Tuy nhiên, con người
xuyên suốt lịch
sử đã hành động như thể
có một số
điều nhất
định nào đó là đúng. Tôi chỉ
quan tâm tới cách thức con người tạo ra những quy tắc
để quyết
định cái gì là đúng và cái gì là
sai.
Để hiểu những gì mà Foucault thực hiện trong các bài viết và bài giảng của ông, điều
quan trọng nhất cần ghi nhớ là việc
truy tìm sự thật (hoặc sự giả dối) không phải
là mục đích của
triết học ông. Định
hướng triết học của Foucault có thể thoạt nhìn thấy
qua loạt câu hỏi
kiểu như thế này:
1. Điều gì xảy
ra nếu truy tìm sự thật chỉ là một
cái bẫy?
2. Điều gì xảy
ra nếu truy tìm sự thật chỉ là một
“cuộc đeo đuổi
vô ích” làm chúng ta sao nhãng khỏi những câu hỏi
thú vị khác?
3. Những vấn đề triết học của chúng ta tới từ đâu?
4. Trong những
cách thức nào mà truy tìm sự thật đã giam cầm tư duy của chúng ta và chế ngự những khả
năng là người của chúng ta trong thế giới?
Foucault quan tâm tới những điều
kiện lịch sử dẫn tới những hệ thống tư tưởng khác nhau. Có những hệ thống tư tưởng trong thế kỉ XVII thiết lập nên những
quy tắc để quyết định sự thật, và những
hệ thống đó khác biệt với những hệ thống thiết lập nên những quy tắc
trong thế kỉ XVIII. Thời điểm lịch sử khác nhau phát minh ra những tiêu chuẩn khác nhau để quyết định cái gì là thật. Những quy tắc sự thật cho kỉ
nguyên lịch sử này không giống
những quy tắc sự thật cho kỉ
nguyên lịch sử kia. Có những
bộ tiêu chuẩn
khác nhau trong lịch sử để quyết định cái gì là thật; Foucault thực tế đã sử dụng cụm từ “trò chơi sự thật” để ám chỉ tới các kiểu hệ thống tư tưởng mang tính lịch sử này.
Thuyết
duy sử
là quan điểm triết học cho rằng những
điều kiện địa phương cụ thể sẽ định hình khái niệm và nhãn quan. Bởi Foucault nghiên cứu trò chơi sự thật như là
sản phẩm của những bối cảnh lịch sử của chúng nên triết học của ông có thể được xếp loại vào thuyết
duy sử hơn là
hư vô
chủ nghĩa.
Thuyết
tương đối có liên quan tới thuyết hư vô,
và là
một lối phê bình triết học khác được
áp dụng cho tác phẩm của Foucault. Chủ nghĩa
tương đối quen thuộc
nhất với chúng ta trong cụm từ “Tất cả chỉ là tương
đối thôi”, có nghĩa
là không
có sự thật duy nhất
mà là có những sự thật khác nhau. Với Descartes và các nhà lý thuyết
hiện đại khác, chủ
nghĩa tương đối lại là một vấn đề triết học bởi nó không đem lại cho chúng ta bất cứ cơ sở nào để
chúng ta dựa vào đó mà phán định xem những đức tin của
chúng ta là đúng hay sai. Đúng là Foucault đã từ chối tất cả những luật định phổ quát và các nền tảng cho hành động phán định cái gì là đúng. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa
là đối với Foucault, “bất cứ cái gì cũng được”. Chỉ bởi vì không có luật phổ quát nào không có nghĩa là chúng ta không có cơ sở cho sự
phán định. Triết học Foucault không cung cấp các luật,
các nguyên tắc hay
nền tảng giúp chúng ta thực hiện các phán định; tuy nhiên nó cung cấp những nhãn quan, cái nhìn thấu đáo, những công cụ lý
thuyết và cảm hứng để nghiên cứu đời sống của chúng ta sâu hơn và
phán định có tính phê bình hơn.
Có một nhân tố khác biện
luận chống lại việc xếp phạm trù triết học Foucault vào hư vô
chủ nghĩa.
Trong đời sống cá nhân, ông hoạt động chính trị rất tích cực. Ông công khai phản đối những bất công xã hội,
không chỉ ở Pháp mà còn ở nhiều quốc gia khác. Trong khoảng thời gian là một
thành viên của Hội Cộng sản Pháp, ông tham gia các cuộc đấu tranh chính trị chống lại những đạo luật phân biệt,
thành lập một nhóm những
người vận động đòi quyền
công dân cho tù nhân, và đã tuyên bố thẳng với truyền
thông đại chúng rằng
ông chống lại sự bóc lột
và lạm dụng. Nếu
chủ nghĩa
hư vô
bao hàm một kiểu từ bỏ thế giới thì chủ
nghĩa tích
cực bền bỉ của Foucault rõ ràng không hư vô
chủ nghĩa
một chút nào. Với nét tinh tế đặc trưng, ông
đã mô
tả quan điểm của riêng mình là “chủ nghĩa
tích cực yếm thế”. Trong cụm từ này chúng ta có thể nhận ra quan điểm triết học nổi lên tính mỉa mai châm biếm hơn là
hư vô
chủ nghĩa.
Chủ nghĩa hoài nghi
Một số học giả phân triết học Foucault vào loại chủ nghĩa
hoài nghi (ví dụ xem Rajchman 1985). Chủ nghĩa
hoài nghi là một quan điểm
triết học từ chối sự phán định
những xác nhận.
Chủ nghĩa
hoài nghi là một quan điểm đặt ra câu hỏi “Bạn chắc chắn về điều ấy chứ?” Hiểu
theo nghĩa rộng của thuật
ngữ ấy, tác phẩm của Foucault được xếp vào chủ
nghĩa hoài
nghi.
Foucault thậm chí còn hoài nghi toàn bộ sự nghiệp triết học hiện đại. Foucault dám hỏi những câu hỏi dạng như:
1.
Bạn
có chắc chắn
rằng sự
thật là vấn
đề quan trọng
nhất của
triết học
hay không?
2.
Thay vào đó, tại
sao triết học
lại không đi tìm hiểu
trạng thái cực
khoái?
3.
Tại
sao triết học
phương tây lại
quá quan tâm tới sự
thật như
vậy?
Cấp độ căn bản
này của chủ nghĩa
hoài nghi đã thách
thức triết học ở cấp độ cốt lõi bản
thể của nó, và do vậy đã làm cho rất nhiều
nhà lý luận, nhà khoa học, cũng
như các
trí thức hiện đại không thể chấp nhận được tác phẩm của Foucault. Ông nghi ngờ rằng việc
tìm kiếm sự thật của triết học có thể - đáng mỉa
mai thay – đang giới hạn chính cách chúng ta có thể nghĩ. Triết học phê bình của Foucault dấy lên khả
năng rằng thời đại Khai sáng tập trung vào lí tính và sự thật. Điều
này đã từng là cuộc
theo đuổi hoạt động giải
phóng, rồi thời của nó qua đi, và rằng bây giờ thì việc
truy tìm sự thật có lẽ
đang làm bình thường hóa tư
duy của con người
hơn là
giải phóng nó.
Cùng với sự khước từ truy tìm sự thật, Foucault cũng
nghi ngờ về cái điều kiện tất yếu rằng truy vấn
triết học phải được chỉ đạo bởi các quy tắc lý tính và luận lí. Trong thực tế - và điều
này trở thành một
điều ngạc nhiên với rất nhiều nhà triết học – Foucault coi bản thân lý tính (reason) là một đối tượng hay là đích nhắm của nghiên cứu
triết học. Nói cách khác, trong khi các nhà triết học hiện đại sử dụng lý tính như một công cụ điều tra triết học thì Foucault lại nghi ngờ về các quy tắc của lý tính. Thay vì sử dụng lý tính như một công cụ,
Foucault coi nó như một vấn đề triết học. Thay vì xác nhận rằng triết học phải hợp lý (reasonable), tác phẩm của Foucault lại chỉ ra cho chúng ta rằng ý nghĩa
của lý tính đã thay đổi rất nhiều lần trong lịch sử, và bản
thân lý tính là một vấn đề triết học cần đưa ra tranh luận và cân nhắc. Bằng việc
nghi ngờ việc truy tìm sự thật và vai trò của lý tính, tác phẩm của Foucault đưa ra những thách thức
tiềm tàng có nguy cơ gây tổn hại với cả triết học và lịch
sử.
Tuy vậy, cùng lúc đó có một quan điểm
khác đưa ra đề xuất rằng hướng tiếp cận triết học của Foucault không thể bị coi là chủ
nghĩa hoài
nghi. Paul Veyne, sử gia người
Pháp và là giáo sư trường Collège
de France chứng tỏ rằng Foucault không phải là người thuộc
chủ nghĩa
hoài nghi mà là
triết gia “thực
chứng” (Veyne 1997, tr.175). Chủ nghĩa
thực chứng là quan điểm triết học cho rằng
tri thức thực sự chỉ có thể đến từ kinh nghiệm
giác quan như nhìn,
nghe, nếm, chạm,
và ngửi. Bởi vì chủ
nghĩa thực chứng nghiên cứu
những thứ hữu hình của thế giới, rất nhiều
người có thể sẽ ngạc nhiên khi nghe thấy triết học Foucault được mô tả là mang đặc
tính thực chứng. Lý lẽ của Veyne là Foucault phê phán triết học hiện đại và rất
nhiều các khái niệm bao chứa triết học hiện đại, như sự hợp lý, cá nhân, chính phủ, tự do và quyền
con người. Foucault từ chối mặc nhận những khái niệm
này. Thay vào đó Foucault nghiên cứu các thực
tiễn và hoạt động mà con người gọi là “luận
lý”, “sự thống trị”,
hay “tự do”. Ông cũng nghiên
cứu cách thức
những khái niệm
này được đưa vào
thực hành.
Quyết định luận
Quyết định luận
là niềm tin triết học cho rằng chúng ta không điều khiển được cuộc sống của chính chúng ta. Đôi khi cũng được gọi là ‘thuyết định mệnh’, quyết định luận nói với
chúng ta rằng chúng ta không có lựa chọn mà phải
chấp nhận cuộc đời như nó
vốn thế bởi vì chúng ta chẳng thể làm gì được.
Trong thuật ngữ triết học, quyết định luận đối lập với niềm tin vào ý chí tự do. Vài người tin rằng
con người có ý chí tự do – rằng chúng ta ở một mức độ nào đó có thể điều khiển
những thứ xảy ra với chúng ta trong cuộc đời – và vài người khác tin rằng cuộc đời của chúng ta bị điều khiển bởi những sức mạnh bên ngoài. Những sức mạnh điều
khiển bên ngoài có thể thuộc về tôn giáo (như Chúa),
khoa học (như di
truyền), hay lịch
sử (như đặc trưng dân
số). Hầu hết mọi người tin vào một
quan điểm trung dung nằm ở đâu đó giữa
hai thái cực này. Ví như người ta tin rằng
con người có thể điều khiển được một số khía cạnh
nào đó của đời sống chúng ta và không thể điều khiển được những khía cạnh
khác, hay là chúng ta có một lượng giới hạn các lựa chọn trong bất cứ tình huống đã có nào.
Bất luận thế nào thì cuộc tranh luận ý chí tự do - quyết định luận cũng đã diễn ra trong triết học nhiều thế kỉ.
Kì lạ là một số nhà phê bình đã quy kết triết học Foucault là quyết định luận,
và những nhà phê bình khác quy kết rằng nó đưa
ra một niềm tin không xác đáng về ý chí tự do. Tuy nhiên, thực tế, Foucault đã chối từ cả quyết định luận lẫn niềm tin vào ý chí tuyệt đối. Ông không chấp nhận quan điểm
cho rằng chúng ta có thể giải thích được
các sự kiện lịch sử như thể chúng đã được
tạo ra bởi
những ngoại lực như Chúa
trời, chủ
nghĩa tư bản, hệ thống, AND, hay các thể chế xã hội.
Ông cũng không theo quan
điểm cho rằng
chúng ta có thể giải thích được
các sự kiện bằng việc
quy kết các cá nhân người thành những kẻ hung đồ
hay ghi danh vài người anh hùng cụ thể . Ông cũng không thừa nhận rằng các nhân vật riêng lẻ có thể tất yếu thay đổi
tiến trình lịch
sử.
Foucault khước từ niềm tin cho rằng
sự điều khiển
(quyết định) khởi từ một nguồn đơn nhất (bất kể nó là một
thể chế hay một
cá nhân). Thay vào đó, để giải thích các sự kiện lịch sử, ông tìm kiếm mối liên hệ
qua lại giữa nhiều
nhân tố phức hợp và các quan hệ quyền lực phức tạp. Trong phân tích của Foaucalt, các sự kiện được định hình bởi một nhóm các nhân tố đặc thù mang tính lịch sử, bao gồm,
nhưng không giới hạn vào, hành động của các cá nhân người. Với Foucault, chúng ta không thể biết trước được nhân tố
nào sẽ định hình bất sự kiện nào. Chúng ta chỉ có thể nhìn lại
các sự kiện và cố gắng đi tới một quan điểm
có tính phê bình về quá khứ.
Một trong những điều
khó nhất để hiểu được triết học Foucault là sự chối từ cả quyết định luận
và ý chí tự do của
ông. Triết học đó chối từ toàn bộ cặp đôi đối lập ý chí tự do và quyết định luận. Đối với các nhà triết học hiện đại thực hiện cuộc truy tìm sự thật, thì lựa
chọn giữa quyết định luận và ý chí tự do thường là một sự lựa chọn “hoặc
là/ hoặc là”; chứ
không có khả năng thứ ba
nào khác. Thế nhưng triết học Foucault đã thách thức các thuật
ngữ của cuộc tranh cãi này, và các lý thuyết của ông đã thay thế toàn bộ sự lưỡng phân quyết định luận – ý chí tự
do. Đối với sự lưỡng phân này, quan điểm của Foucault có vẻ thiên về điều này hơn:
1. Cái gì là hoàn cảnh lịch sử dẫn tới sự thiên vị
dành cho niềm tin vào quyết định luận?
Và hoàn cảnh lịch sử nào dẫn tới ủng hộ niềm tin vào ý chí tự do?
2. Tác động
của những niềm
tin này (quyết định luận
và ý chí tự do) lên chúng ta là gì?
3. Chúng ta có thể điều khiển được một phần của cuộc đời chúng ta, và phần còn lại thì lại
không thể điều khiển.
Nhưng chúng ta chẳng
có chút ý niệm gì về việc
xem phần nào là phần nào. Vậy thì chúng ta hãy cùng khám phá một loại
câu hỏi khác để tạo ra sự thay đổi.
Các nhà triết học đã tranh luận về quyết định luận với ý chí tự do hàng bao thế kỉ mà cuối
cùng cũng chẳng đưa ra được câu trả lời vừa ý nào cả,
và Foucault thấy tranh luận ấy thật nhàm chán. Theo quan điểm của ông thì tranh luận cũ
kĩ này chẳng
giúp được ai tìm ra được cách để sống một cuộc đời tốt đẹp hơn. Thế
nên ông đã rời xa thế lưỡng phân (sai lầm) này để
theo đuổi những câu hỏi
khác, hy vọng rằng một loại hình triết học khác có thể có cơ hội mở ra những
viễn cảnh mới cho việc
thực hiện sự công bằng
và niềm khoái lạc.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét